Tình hình kinh tế - chính trị và các cuộc nổi dậy của nhân dân
Bạn phải là thành viên VIP mới được làm bài này! Đăng ký mua thẻ VIP tại đây
- Nguyễn Ánh nhân nội bộ Tây Sơn suy yếu, đem thủy binh ra lấn dần vùng đất của Tây Sơn
- Sau khi chiếm được Quy Nhơn (tháng 6 - 1801), Nguyễn Ánh đánh thẳng ra Phú Xuân. Nguyễn Quang Toản chạy ra Bắc Hà. Giữa năm 1802, quân của Nguyễn Ánh lần lượt chiếm vùng đất từ Quảng Trị đến Nam Định rồi tiến thẳng về Thăng Long. Nguyễn Quang Toản chạy lên mạn Bắc Giang bị bắt, chấm dứt triều Tây Sơn
- Năm 1802, Nguyễn Ánh đặt niên hiệu là Gia Long, chọn Phú Xuân làm kinh đô, lập ra triều Nguyễn; năm 1806, lên ngôi Hoàng đế. Nhà nước quân chủ tập quyền được củng cố. Vua trực tiếp điều hành mọi việc hệ trọng trong nước
- Năm 1815, nhà Nguyễn ban hành bộ Hoàng triều luật lệ. Các năm 1831 - 1832, nhà Nguyễn chia nước làm 30 tỉnh và 1 phủ trực thuộc. Đứng đầu tỉnh lớn là chức tổng đốc, các tỉnh vừa nhỏ là chức tuần phủ
- Quân đội nhà Nguyễn gồm nhiều binh chủng
- Các vua Nguyễn thần phục nhà Thanh. Đối với các nước phương Tây, nhà nguyễn khước từ mọi tiếp xúc. Điều này càng thúc đẩy nước Pháp chuẩn bị xâm lược nước ta.
- Về nông nghiệp, vua Nguyễn chú ý việc khai hoang. Các biện pháp di dân lập ấp và lập đồn điền được tiến hành
- Năm 1828, Nguyễn Công Trứ được cử làm Doanh điền sứ. Ông khai phá miền ven biển, lập nên các huyện Tiền Hải, Kim Sơn; thành lập hằng trăm đồn điền rải rác ở Nam Kì
- Việc khai hoang đã tăng thêm diện tích canh tác. Những ruộng đất bỏ hoang nhiều vì nông dân bị địa chủ, cường hào cướp ruộng đất, phải lưu vong
- Nhà Nguyễn đặt lại chế độ quân điền nhưng không còn tác dụng phát triển nông nghiệp và ổn định đời sống nhân dân
- Ở các tỉnh phía bắc, việc sửa đắp đê không được chú trọng
- Về công thương nghiệp, nhà Nguyễn lập nhiều xưởng đúc tiền, súng, đóng tàu ở Huế, Hà Nội, Gia Định... Thợ giỏi được tập trung về sản xuất trong xưởng của nhà nước
- Nghành khai thác mỏ được mở rộng nhưng cách khai thác lạc hậu, hoạt động thất thường sa sút dần
- Nhiều làng thủ công nổi tiếng khắp nước như làng Bát Tràng, Ngũ Xá... nhưng hoạt động thủ công nghiệp trong dân gian còn phân tán. Thợ phải nộp thuế sản phẩm nặng nề-
- Sang thế kỉ XIX, nhiều thị tứ mới xuất hiện rải rác ở các tỉnh Nam Bộ, Trung Bộ
- Các thuyền buôn Trung Quốc, Mã Lai... thường cuyen sang nước ta buôn bán hàng hóa. Nhà Nguyễn không cho người phương Tây mở cửa hàng, chỉ được ra vào một số cảng đã quy định.
- Nhân dân sống khổ cực vì địa chủ hào lí chiếm đoạt ruộng đất, quan lại tham nhũng, tô thuế phu dịch nặng nề. Nạn dịch bệnh, nạn đói hoành hành khắp nơi.
- Khởi nghĩa Phan Bá Vành
+ Năm 1821, Phan Bá Vành kêu gọi nông dân trong vùng nổi dậy chống địa chủ, quan lại. Hoạt động lan khắp Thái Bình, Nam Định, Hải Dương, Quảng Yên.
+ Lập căn cứ chính ở Trà Lũ (Nam Định), đánh nhau nhiều trận lớn với quân triều đình
+ Năm 1827, nhà Nguyễn đem quân tấn công căn cứ Trà Lũ. Phan Bá Vành không chống nổi, bị bắt. Cuộc khởi nghĩa bị đàn áp
- Khởi nghĩa Nông Văn Vân
+ Nông Văn Vân cùng một sô tù trưởng tập hợp dân chúng nổi dậy. Cuộc khởi nghĩa lan khắp miền núi Việt Bắc, một số làng người Mường , người Việt ở trung du
+ Nhà Nguyễn đàn áp hai lần nhưng không hiệu quả. Lần thứ ba, quân triều đình bao vây đốt rừng. Nông Văn Vân chết trong rừng, cuộc khởi nghĩa bị dập tắt
- Khởi nghĩa Lê Văn Khôi
+ Tháng 6 - 1883, ông khởi binh chiếm thành Phiên An (Gia Định), tự xưng là Bình Nam Đại nguyên soái
+ Mấy tháng sau, sáu tỉnh Nam Kì theo ông. Sau đó, Thái Công Triều đầu hàng triều đình. Lê Văn Khôi qua đời, con trai ông 8 tuổi lên thay
+ Tháng 7 - 1835, cuộc khởi nghĩa bị đàn áp
- Khởi nghĩa Cao Bá Quát
+ Ông tập hợp nông dân và các dân tộc miền trung du định nổi dậy ở Bắc Ninh, Hà Nội. Kế hoạch bị lộ, nghĩa quân phải khởi sự sớm hơn
+ Đầu năm 1855, Cao Bá Quát hi sinh ở vùng Sơn Tây trong trận chiến ác liệt. Đến cuối 1856, cuộc khởi nghĩa bị dập tắt.